Một mình ở Versailles

Cảnh tượng truớc mắt tôi làm tôi nhớ hòai một phân cảnh cổ điển và bất hủ của the Notebook, khi Noah chèo thuyền có Ali kề bên, thuyền trôi lững thững giữa một đàn thiên nga hòa lành. Có một dạo mới từ Pháp về, tôi còn tập họa lại khung cảnh bình yên ở Jardins du château de Versailles, vẽ thế nào thì thiên nga hóa vịt nên thôi tôi từ bỏ luôn, không lại phá hỏng cái đẹp thì khốn.

Ngày thứ Ba ở Paris năm 2014.

-----

Tôi đã quen rồi với cái hệ thống tàu điện ngầm chằng chịt và cũ kỹ của Paris, nên quyết định bắt RER ra zone xa hơn ngòai trung tâm, đến Versailles để chiêm ngưỡng cơ ngợi đồ sộ của Napoleon, Marie Antoinette, phản ánh nền văn hóa xa hoa của Pháp trước kia. Tôi mua sẵn vé trên mạng với giá 18EUR thôi, và sẽ được tham quan tất tần tật về Versailles, bao gồm cả máy thuyết minh bằng tiếng Anh. Thật ra, lúc tôi ở Paris, tôi chẳng lên kế họach cụ thể để đi thăm thú ở đâu cả. Đơn thuần là, sáng ngày thứ ba thức dậy, tôi nhẩn nha nhẩn nhơ muốn đi ra xa khỏi trung tâm thành phố, về nơi xanh hơn một tí, thóang hơn một tí, rộng hơn một tí, nên quyết định đặt vé đi Versailles. May quá là lâu đài vẫn họat động suốt hè, lấn sang thu vì tiết trời Paris vẫn còn dịu dàng lắm.

Tôi bắt được một chuyến tàu cổ kính (chỉ có tàu điện ở một số tuyến nhất định là vẫn còn mới, như tuyến xuống Bercy về nhà em gái tôi chẳng hạn). Tôi thích dùng từ cổ kính dành cho chuyến tàu đã đưa tôi xuống Versailles vì tàu hai tầng, cũ và cổ đến mức trần tàu vẫn còn những bức vẽ mang hơi hướng Phục Hưng, nước màu vẽ cũng nhạt rồi, lâu đời, và quan trọng là, cái sự cổ kính xình xịch đó tạo cảm hứng cho tôi viết được một lá thư cho người tình bằng bút chì. Tôi còn nhớ, lúc tôi đang đứng tựa lưng vào cầu thang chờ tàu, lơ đễnh và khinh đời, có một gia đình Đông Âu (tôi đóan họ từ Đông Âu đến do chất giọng) hỏi tôi nhiều câu hỏi về Paris, về những chuyến tàu đưa nhau đến Versailles vì họ những tuởng tôi là người sống-tại-Paris. Chắc chắn một điều, không phải do sắc vóc; tôi nghĩ, chắc là do thần thái thảnh thơi rất la vie en rose của người Paris chánh. Tôi tự nghĩ, cái vẻ cao ngạo, kiêu kỳ và đỏng đảnh của dân Sài Gòn gốc ít nhiều cũng là do ảnh hưởng từ dân Paris ngày xưa đã mang về đất Việt đấy.

-----

Chuyến tàu xuống Versailles đông đúc, mặc dù là ngày trong tuần. Đa phần khách trên tàu là dân du lịch. Tàu chạy chậm chạp băng ngang qua những ngõ ngách của Paris hoa lệ, băng ngang qua cả những góc khuất tồi tàn. Vì Versailles nằm ở trạm cuối cùng nên tôi cứ "lắng nghe thu rụng bên trời Paris" dọc dòng "sông Seine nước đến rồi đi" (mượn lời của Lê Mộng Nguyên).

Đến trạm cuối, ra khỏi ga thì tôi còn phải đi bộ qua một hàng dài cây xanh rợp bóng trời thu và con đuờng trải lá. Tuy có nhiều khách du lịch xuống cùng một lúc, nhưng do ở ngọai ô còn thóang đãng, nên tôi thấy như chỉ có mình tôi đang quay vòng hạnh phúc, nhảy chân sáo như trẻ nhỏ ở một vũ trụ mang tên Château de Versailles.

-----

Đó là câu chuyện của tôi bên ngòai lâu đài...

-----

Đến cổng lâu đài thì tôi đã thấy một hàng dài người (mà không còn là cây nữa) đứng xếp hàng để vào bên trong. Tôi lia máy chụp vội vài tấm làm kỷ niệm chốn Versailles rồi nhờ một cô bạn Hàn Quốc đứng phía sau chụp hộ tôi một tấm với lâu đài. Tôi luôn học cách nói cảm ơn bằng nhiều thứ tiếng, việc nhỏ nhặt này vậy mà mang lại niềm vui cho những người mà tôi vô tình gặp gỡ trên đường. Khi tôi nói "gamsahabnida" với cô bạn Hàn Quốc xinh như búp bê, cô và hội bạn cô cười vang. Đáng tiếc, họ không nói tiếng Anh để tôi có thể cùng nhập hội...

Người xếp hàng dài là thế, nhưng trật tự và công tác kiểm tra an ninh ở đây rất bài bản, nhanh nhẹn nên tôi cũng không phải chờ đợi quá lâu. Độ 7 phút thì tôi đã có thể vào được bên trong sau khi hòan tất các thủ tục kiểm tra ba lô, vé điện tử và ID. Tôi nói thật thì...tôi muốn ở bên ngoài lâu đài hơn là vào tham quan bên trong, nếu không vì đam mê nhìn ngắm chốn ngự trị của bà hoàng Marie Antoinette một thời lừng lẫy. Phía bên trong lâu đài đông nghịt người. Đông đến nỗi muốn dừng lại để nhìn ngắm lâu hơn cái nội thất, cái kiến trúc, đọc cho kỹ cái giải thích về từng căn phòng cũng khó. Một phần vì lâu đài rộng quá, đi xem một ngày chừng cũng không đủ, huống chi tôi đến nơi thì sáng cũng đã muộn rồi; một phần nữa vì dòng người tuôn theo luồng tiến tới, ai cũng di chuyển ăn khớp theo nhịp bước chân như đi diễu hành trong lâu đài, không cho phép tôi dừng lại, khéo lại gây tắc nghẽn giao thông hoàng gia mất.

Lâu đài Versailles phản ánh sự giàu có bậc nhất của hòang gia Pháp danh tiếng một thời. Tôi đứng đó ngắm bức họa ghi lại khỏanh khắc lịch sử Napoleon trao ngai hòang hậu cho nàng Josephine tài hoa, xinh đẹp, xứng danh bậc mẫu nghi thiên hạ mà nghĩ đến bộ film the Terminal của Tom Hanks hòai. Xưa kia có người đã "tập" cho tôi xem bộ film đó, tôi còn mê mẩn đến mức đi cắt tóc cho giống cô Catherine Zeta-Jones trong film. Film quay ở New York. Lúc tôi ở Paris thì còn chưa được đến New York đâu, nhưng đến New York rồi thì quên bẵng the Terminal...

Tôi đi qua dãy hành lang bán nhiều hàng lưu niệm về Marie Antoinette, tòan một màu hồng cổ tích và đủ xinh xắn để làm xao xuyến bất cứ trái tim một cô gái nào đã lỡ thần tượng bà. Tôi đưa máy lên chụp vài tấm hình thì bị cô nhân viên bán hàng nhắc nhở ở đây không được phép chụp hình, tôi vội vàng xin lỗi và giải thích rằng mình không biết, và sẽ xóa những tấm hình đã chụp nếu điều đó làm ảnh hưởng đến cô. Tôi thấy cô bán hàng ngẩn người ra một tí rồi bảo không sao đâu, nếu có thích gì nữa thì cứ chụp, nhưng đừng chụp nhiều quá. Tối đó từ Versailles về, tôi kể cho Alex nghe chuyện này và bảo người Paris đáng yêu quá. Alex nhìn tôi cười mà nói rằng, vì "You made them nice" (đại loại là "Chính bạn đã làm họ trở nên tốt thế đấy")- nghe mà đỏ lựng cả mặt và suớng tái tê. Thế đó, những gì bạn cho đi đơn thuần là những gì bạn nhận lại.

Căn phòng tôi thích nhất ở lâu đài, cũng là căn phòng sang trọng nhất - Hall of Mirrors của vua Louis XVI. Cả căn phòng được ốp gương đắt giá, long lanh lên trong những ánh nắng đầy sức sống hắt qua những ô cửa. Đèn pha lê chùm từng chùm treo dọc trần nhà ngọc ngà vô cùng kiều diễm. Những bức tượng đúc nghệ thuật giá trị đứng đó lầm lũi và lạnh giá nhìn ngắm bao nhiêu là con người đã qua lại, đã trầm trồ về nơi đây. Tôi tuởng tuợng, nếu những bức tượng ấy biết nói, họ sẽ nói rằng, "lũ người xuẩn ngốc các người, đến đây chỉ đổ xô ngắm nhìn những cái hào nhóang lồ lộ, có biết chăng bọn ta ở đây bao lâu rồi, yêu say đắm từ trong tim một nền văn hóa đáng tự hào, cái anh tài của những người trị vì bao nhiêu thế kỷ, cái tinh hoa trong nghệ thuật mà người thời ta đã lưu truyền lại. Liệu thân mà bảo tồn đấy."

Tôi cũng là một trong đại đa phần du khách đưa máy lên lia lịa chộp lại một phần nước Pháp hào sảng. Khi viết lại những dòng này, tôi thật trách mình sao không đi dọc căn phòng nhẹ nhàng thôi, và soi mình mình qua những tấm pha lê quý báu. May mà, tôi cũng không bỏ lỡ quá nhiều...

-----

Hoa ở vuờn thượng uyển sắp tàn. Tuy nhìn xa xa vẫn còn rực rỡ lắm, nhưng tiến đến gần thì những cánh hoa yếu ớt chắc chẳng trụ nổi qua đầu thu. Tôi đi ra khỏi lâu đài và lạc lối trong cái mê cung cây xanh lá rộng 800 ha. Một mình lẫm lũi vòng quanh các hàng cây cao vút đầu chắc bằng 10 lần chiều dài của tôi gộp lại, mà sao tôi chẳng thấy mình cô đơn. Tôi có thời gian dài suy nghĩ về nhiều thứ, nhất là về những điều tốt đẹp đã qua và sẽ đến, rồi lâng lâng lòng chờ đợi một người. Có một ai đó hay một điều gì đó để chờ đợi còn hơn là thức dậy mà chẳng biết mình đang chờ đợi điều gì. Nghĩ vậy đó, và tôi chờ người ở Versailles.

Bên Grand Canal có nhiều họat động - nào tình nhân chèo thuyền dọc kênh, nào bè bạn nhóm nhẩy chơi đùa với thiên nga, nào gia đình ăn trưa vô tư lự. Tôi đảo mắt nhìn quanh, hình như chỉ có tôi là người lữ hành đơn độc. Tôi chọn một thảm cỏ sạch, ngồi xuống, thay ống lens zoom dùng như ống nhòm ngắm chim bay, thi thỏang tôi chụp cận cảnh vài con chim trắng muốt sạch sẽ. Cảnh tượng truớc mắt tôi làm tôi nhớ hòai một phân cảnh cổ điển và bất hủ của the Notebook, khi Noah chèo thuyền có Ali kề bên, thuyền trôi lững thững giữa một đàn thiên nga hòa lành. Có một dạo mới từ Pháp về, tôi còn tập họa lại khung cảnh bình yên ở Jardins du château de Versailles, vẽ thế nào thì thiên nga hóa vịt nên thôi tôi từ bỏ luôn, không lại phá hỏng cái đẹp thì khốn.

-----

Tôi ngồi đó đủ lâu để nói chuyện với một gia đình người Pháp, họ hỏi tôi ở Việt Nam có một lọai nón tam giác mà họ thích lắm nhưng không biết gọi là gì, tôi phì cười rồi chỉ họ nói "Nón lá".

Tôi đi vòng quanh đủ lâu để làm quen với một chú công nhân cắt cỏ làm việc ở đây, chú thấy tôi đi bộ nhiều thì hỏi liệu tôi có muốn đi cùng xe ra đến cổng. Tôi cảm ơn và từ chối vì tôi thích đi bộ ra hơn.

Trời gần sập tối nên trời xám lại, rủ một vẻ buồn cùng cực lên một phần của Versailles. Xa xa hơn phía cổng chính, đất đai và rừng cây bạt ngàn từng thuộc tài sản của hòang gia Pháp, một nhánh lâu đài không cho phép nguời tham quan trầm mặc đứng đó trông buồn hiu hắt.

Tôi rời Versailles và về lại Paris hoa lệ.

-----

Ở Versailles, tôi đọc được một nửa cuốn Kitchen của Banana Yoshimoto - cuốn sách hay và giản dị viết về sự đứng lên sau mất mát của những con người trẻ.

Ở Versailles, tôi viết thêm được một lá thư tình cho người tình bằng bút chì...

Sau này, hai lá thư tình tôi viết ở Versailles cũng lạc đâu mất...

-----

Versailles làm cho tôi thẩm thấu câu nói "Not all who wander are lost" (*) nhiều hơn một chút.

-----

.::Nat & her journeys::.

Château de Versailles, France, Sep '14

(*): tạm dịch là "không phải những người "lang thang" đều lạc lối"

(Nội dung bài viết được chia sẻ bởi Nat Nguyen. Vui lòng ghi rõ nguồn gốc By Nat Nguyen hoặc www.vivavivu.com khi chia sẻ bài viết)




Những ngày đầu thu thanh bình  bên Grand Canal 


Tôi nằm đấy, hưởng chút thảnh thơi cùng Banana Yoshimoto và một bức thư viết tặng người tình


Những món đồ lưu niệm nhỏ xinh được bày bán khắp Château de Versailles


 

CDG